Ở Đắk Nông, cát xây dựng giờ đã vượt 1 triệu đồng/m³, thậm chí có nơi lên tận 1,23 triệu – tăng hơn 50% so với năm ngoái (theo Thanh Niên). Miền Trung – Tây Nguyên thì cũng chẳng kém, có nơi 780.000 đến hơn 1,2 triệu/m³, gần như gấp đôi đầu năm (Thời báo Kinh tế Sài Gòn). Miền Bắc, cụ thể là Lạng Sơn, giá cát phục vụ các dự án giao thông cũng đã nhảy từ 300.000 lên hơn 450.000 đồng/m³, tức tăng hơn 50% chỉ trong một năm (Nhân Dân).
Tính ra, chỉ riêng 9 tháng đầu năm, Bộ Xây dựng ghi nhận giá cát tự nhiên tăng tới 58,4%, đá xây dựng tăng 10 – 18% tùy khu vực. Cứ như vậy thì công trình nào chịu nổi? Từ nhà dân nhỏ xíu cho đến đại dự án hạ tầng, ai cũng phải dừng lại tính toán, thậm chí có nơi đắp chiếu vì chi phí đội quá mức dự kiến.
Nhưng cái tôi thấy đáng nói nhất, không phải là chuyện giá tăng mà là vì sao giá lại tăng kiểu này. Bởi giá không tự nhiên mà leo, phải có “tay ai đó” đẩy lên. Ở nhiều tỉnh, bảng giá vật liệu được công bố chậm, có khi 2–3 tháng mới ra, thông tin thì thiếu cập nhật. Khi giá chính thức bị “treo”, thị trường trở nên mập mờ, và thế là kẻ đầu cơ, găm hàng có đất diễn. Người cần vật liệu thì vẫn phải mua, mà mua theo giá ai đó “tự đặt”. Kết quả: dự án kẹt, công trình chậm, còn lợi nhuận thì trôi vào túi một nhóm nhỏ.
Còn về nguồn cung, nói thẳng là đang nghẽn. Nhiều mỏ vật liệu vẫn nằm trên giấy, vướng quy hoạch, chưa được cấp phép khai thác. Trong khi nhu cầu hạ tầng thì tăng chóng mặt: cao tốc Bắc Nam, vành đai Hà Nội, TP.HCM… đều đang cần lượng vật liệu khổng lồ. Cầu tăng, cung tắc, mà thông tin lại thiếu minh bạch ba yếu tố cộng lại tạo thành “cơn sốt giá” đúng nghĩa.
Tôi đồng ý với hướng xử lý của Bộ Xây dựng yêu cầu địa phương kiểm tra, cập nhật dữ liệu giá, đẩy nhanh cấp phép khai thác. Nhưng theo tôi, chỉ vậy vẫn chưa đủ. Chúng ta cần minh bạch hóa thị trường vật liệu theo đúng nghĩa: có hệ thống dữ liệu giá mở, cập nhật theo thời gian thực – để doanh nghiệp, nhà đầu tư, cơ quan quản lý đều nhìn thấy cùng một con số, không còn chuyện “mỗi nơi một giá”.
Thứ hai, cần cải cách mạnh thủ tục cấp phép mỏ vật liệu, vì nếu nguồn cung không thông, thì có siết đầu cơ mấy cũng không ăn thua. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay là một quy trình rõ ràng, minh bạch, cho phép doanh nghiệp khai thác hợp pháp và kiểm soát được trữ lượng thật.
Và cuối cùng, tôi nghĩ cần nhìn xa hơn: giá vật liệu không chỉ là chuyện của ngành xây dựng. Nó ảnh hưởng tới giá nhà, tới chi phí đầu tư công, và cuối cùng là túi tiền của người dân. Mỗi lần cát tăng 50%, là cả chuỗi chi phí kéo theo – từ xi măng, vận chuyển, đến giá nhà thương mại. Đó là lý do vì sao, kiểm soát giá vật liệu thực ra là một phần của việc bảo vệ ổn định kinh tế và an sinh xã hội.
Nói thì dễ, làm mới khó. Nhưng nếu chúng ta không siết lại lúc này – không minh bạch, không cải tổ – thì vài tháng nữa, câu chuyện “vật liệu tăng giá” sẽ lại tái diễn. Và khi đó, người chịu thiệt vẫn là doanh nghiệp và người dân, chứ không phải những người đang “ngồi trên mỏ vàng”.
Tôi tin, khi thị trường được quản lý đúng cách, minh bạch và công bằng – giá vật liệu sẽ trở về đúng giá trị thực của nó. Và đó mới là nền tảng vững chắc cho một ngành xây dựng chuyên nghiệp, bền vững – thay vì phải chạy theo “cơn sốt” hết lần này đến lần khác.