Khi tôi hỏi chị có nghe về chính sách nhà ở xã hội mới không, chị cười buồn: “Nghe thì nghe, vậy chứ nộp hồ sơ ở đâu, dự án nào cho người như em em không biết. Có hôm vào web thấy treo, hôm sau lỗi, gọi số điện thoại trên tờ rơi thì môi giới bắt máy.” Câu chuyện nhỏ ấy gói ghém mọi nghịch lý ở trung tâm vấn đề: chính sách đã nới, nhưng con đường tới nhà ở xã hội thì lắt léo, chông gai và đầy rủi ro.
Nâng trần thu nhập tới 20 triệu/tháng, giảm lãi suất ưu đãi xuống còn 5,4%/năm  về mặt số học, đó là một sự “mở cửa” đáng kể. Những con số ấy gửi đi thông điệp: nhà ở xã hội không chỉ dành cho một nhóm rất nghèo nữa, mà hướng tới nhóm lao động đô thị có thu nhập trung bình. Nhưng chính sách tốt trên giấy tờ chưa chắc chuyển hóa thành nhà ở thực tế. Bởi vì ở phía dưới tấm bản đồ chính sách luôn tồn tại những lớp rào cản mà người dân bình thường không có kênh nào để vượt qua: thông tin rải rác và khó tiếp cận, hệ thống đăng ký điện tử dễ sập, quy trình xét duyệt rườm rà, và cả kẽ hở cho môi giới giả danh, lừa đảo xen vào.
Một sự thật  khác là nguồn cung. Khi nghe nói nguồn cung mới chỉ đạt khoảng 6% mục tiêu đến 2030, tôi không ngạc nhiên nhưng vẫn thấy chùng lòng. Mở rộng điều kiện nhưng không kèm theo tăng tốc cung ứng là như nới rộng cửa mà không thêm nhà  thì ai sẽ hưởng lợi? Người đủ điều kiện, đúng; nhưng nếu hàng không có thì mọi ưu đãi chỉ là lời hứa. Trong bối cảnh ấy, những dự án nhà ở xã hội bị treo tiến độ, quỹ đất dành cho nhà xã hội bị tính toán lại cho dự án thương mại lợi nhuận cao hơn, thì “cánh cửa” dù được mở về mặt pháp lý vẫn không mở về mặt thực tế.
Về mặt quản lý, nhiều đơn vị chưa thực sự nhìn nhà ở xã hội như một nhiệm vụ yêu cầu sự phối hợp liên ngành từ quy hoạch, giải phóng mặt bằng, đến nguồn vốn. Về tài chính, gói ưu đãi lãi 5,4% là cần thiết nhưng chưa đủ nếu không có cơ chế bảo đảm cho người vay trong trường hợp khủng hoảng thu nhập. Về công nghệ, việc số hóa thủ tục là xu hướng đúng, nhưng nếu nền tảng thiếu ổn định, chưa thân thiện với người dùng hoặc không đi kèm hướng dẫn, thì nó lại tạo ra một rào cản mới cho nhóm ít có kỹ năng sử dụng mạng. Về pháp lý và xã hội, thiếu minh bạch tạo điều kiện cho môi giới xấu và thậm chí cho các hành vi lừa đảo nhắm vào người yếu thế.
 
Cần nhìn nhận thêm góc độ hành vi: người lao động đô thị không chỉ cần nhà, họ cần một “quy trình an toàn” để đi tới nhà đó. Quy trình ấy phải rõ ràng, dễ tiếp cận, có đầu mối hỗ trợ thực tế, có cơ chế tố cáo và xử lý kịp thời khi có hành vi gian dối. Hãy tưởng tượng chị Lan đứng trước cổng thông tin điện tử, nhưng không có hướng dẫn cụ thể bằng ngôn ngữ dễ hiểu, không có nhân viên hỗ trợ trực tiếp gần nơi chị sống thì lợi ích chính sách sẽ đi qua chị như gió.
Vậy giải pháp cần tập trung vào đâu? Trước hết không chỉ là tiếp tục “nới điều kiện” mà là làm cho “điều kiện dễ thực hiện”. Cần một cổng đăng ký tập trung, ổn định và có tính năng tương tác thực sự  từ thông báo dự án, yêu cầu hồ sơ, đến lịch nộp và trạng thái xử lý; đi kèm đó là mạng lưới tư vấn, hỗ trợ trực tiếp tại các phường/xã để hướng dẫn người dân nộp hồ sơ, đặc biệt là người yếu thế kỹ thuật.
Cần các biện pháp thanh kiểm tra để chặn môi giới giả danh, cùng đường dây nóng, và chế tài đủ mạnh để răn đe. Về nguồn cung, nhà nước có thể kết hợp khuyến khích nhà đầu tư xây nhà xã hội bằng quỹ đất đổi lợi ích, chính sách thuế ưu đãi, hoặc mô hình nhà ở xã hội cho thuê mua kết hợp với các tổ chức tài chính vi mô để đa dạng hoá sản phẩm phù hợp thu nhập. Không thể thiếu cả các mô hình cộng đồng như quỹ đất cộng đồng, hợp tác xã nhà ở, hay các sáng kiến căn hộ cho thuê có trợ giá  những con đường này giảm áp lực mua đứt trong khi vẫn đảm bảo quyền ở.
Cuối cùng, điều cần thay đổi không chỉ là các con số trên văn bản, mà là cách vận hành hệ thống. Khi chính sách được thiết kế có tính bao quát nhưng ly biệt với thực thi, người dân vẫn sẽ là những khán giả đứng ngoài sân khấu. Và nếu chúng ta thực sự muốn nhìn thấy những căn hộ dành cho chị Lan cho những công nhân, giáo viên, nhân viên y tế đang thuê trọ, cho những gia đình trẻ  thì từ “mở” ở cấp độ chính sách cần được chuyển hóa thành “mở” ở cấp độ quy trình, nguồn lực và trách nhiệm.
Tôi không lạc quan một cách mù quáng, nhưng cũng không muốn chấp nhận thực trạng như số phận. Chính sách mở ra cơ hội; bây giờ là lúc chúng ta phải khiến cơ hội đó trở nên khả tín, khả hành và có thể được kiểm chứng. Nếu không, giấc mơ an cư sẽ tiếp tục là câu chuyện đẹp trên báo, còn ngoài kia, những người như chị Lan vẫn vật vã với chiếc vali nhỏ và nỗi lo phải trả tiền thuê mỗi tháng.